Thông báo
của tôiCà phê Arabica (cà phê Chè/ Coffee Arabica) có nguồn gốc cà phê bản địa của vùng cao nguyên tây nam Ethiopia. Arabica là giống cà phê đầu tiên được trồng trên thế giới, hiện tại vẫn chiếm vị trí chủ đạo lên đến 70% sản lượng cà phê toàn cầu.
Loại cà phê Arabica chính gốc hiện nay vẫn còn một số ở Ethiopia. Hầu hết các giống Arabica đang được trồng trên thế giới là kết quả của sự lai tạo. Ở vùng cao nguyên tây nam Ethiopia, người ta mới có thể tìm thấy những cây cà phê Arabica tự nhiên ở trong rừng nhiệt đới. Chúng thường có chất lượng cao, đã qua một lần canh tác của con người nhưng rất nhạy cảm với các sâu, bệnh hại.
Vào thế kỷ 16, giống cà phê Arabica được mang từ Ethiopia đến Yemen. Tiếp đó, các giống Arabica nói chung (giống Bourbon và Typica) phân tán ra toàn thế giới vào thế kỷ 17-18. Hành trình đó được cụ thể như sau:
Độ cao canh tác cà phê Arabica hợp lý nhất là từ 1200 - 2200m, Arabica đặc điểm ưa sống ở vùng núi cao. Nhiệt độ thích hợp trong khoảng 15-24 độ C
Giống cây mang đặc điểm cây có tán nhỏ, màu xanh đậm, lá hình oval. Cây trưởng thành đạt độ cao 2.5 - 4.5m. Cà phê chè sau khi trồng 3 đến 4 năm có thể bắt đầu thu hoạch. Cà phê đạt 25 tuổi được coi là già, hết giá trị kinh tế. Tuổi thọ cao nhất của cây cà phê là 70 năm
Phải nói đến những ngày đầu cà phê được sản xuất trên thế giới, Arabica là giống cà phê duy nhất trước thế kỷ 19. Ưu điểm làm cho các giống Arabica được lựa chọn là khả năng thích ứng với môi trường, năng suất và chất lượng cao. Vào năm 1920, bệnh gỉ sắt (Coffee Leaf Rust) trên cây cà phê Chè xảy ra hàng loạt trên khắp châu Phi, châu Á. Đấy là nguyên nhân chính làm người nông dân tìm kiếm đến các giống thay thế.
Indonesia là quốc gia tiên phong trồng giống cà phê Robusta, trong khi các quốc gia khác thay thế bằng các cây trồng khác. Cà phê Robusta có năng suất cao hơn và khả năng kháng CLR cao. Tuy nhieeenm cà phê Robusta lại không có chất lượng thấp hơn. Do đó từ 1970- 1980, nhiều quốc gia thực hiện tạo giống cà phê khác kháng CLR.
Từ những giống Bourbon và Typica đầu tiên nhiều loại giống khác nhau đã được tạo ra (đột biến tự nhiên hoặc thực hiện bởi con người). Theo thống kê, hiện nay có 125 giống cà phê thuộc loài Arabica phân bổ ở nhiều châu lục châu Phi, Mỹ Latinh, Đông Nam Á, Trung Quốc, các quần đảo Caribean và Thái Bình Dương.
Trong năm 2015, thống kê ICO chỉ ra rằng khoảng 60% sản lượng cà phê đến từ các loại Arabica. Các giống truyền thống có nguồn gốc từ quần thể cây bản địa tại Yemen cũng như đột biến của chúng được coi là có năng suất cao và thể hiên chất lượng "tiêu chuẩn". Vài giống như Laurina, Moka hoặc Blue Mountain được xác nhận chất lượng cao nổi bật. Bên cạnh đó, các cây Arabica hoang dã hoặc bán hoang dã có nguồn gốc từ Ethiopia và Sudan như Geisha và Rume Sudan không có giá trị thương mại vì năng suất thấp.
Giống Arabica Typica được biết đến như một nhóm The Typica Group theo WCR. Nhóm này có nhiều giống con, các giống con được canh tác rải rác trên khắp thế giới, mang các tên gọi như Criollo (Creole), Indio (India) hoặc Arábigo (Arabica) hay Blue Mountain (Jamaica) và Sumatra (Indonesia).
Cho đến ngày nay, sản xuất cà phê chủ yếu dựa trên các giống cây cà phê phát triển từ giống Typica và Bourbon. Điển hình là hầu hết cây cà phê ở Mỹ Latinh (Nam Mỹ) và Brazil (97,55%) thuộc hai loại này.
Ngoài ra vẫn còn một số giống khác, được thừa hưởng gen Typica và ít được biết đến như: Nyasaland (hay còn gọi là Bugisu local, Nyasa), Harrar Rwanda (hay còn gọi là Harraghe)
Cùng với người anh em Typica, Cà phê Bourbon là mắc xích gần như “tối thượng” trong sự kết nối các giống cà phê Arabica. Sự tương quan về chất lượng cao của hai giống cà phê này từng làm thước đo cho chất lượng suốt một chặng dài của lịch sử ngành cà phê. Song một số đột biến đã cho cà phê Bourbon năng suất cao hơn 20 – 30% so với anh em Typica.
Cây cà phê Bourbon đầu tiên được người Pháp trồng trên đảo Bourbon (nay là Réunion ) ở giữa Ấn Độ Dương vào khoảng năm 1708. Ngày nay Bourbon đã có mặt khắp lục địa Mĩ La tinh và châu Phi, phát triển tốt nhất ở độ cao từ 1.100 – 2.000 mét và cho năng suất cao hơn 20 – 30% so với người anh em Typica.
Caturra – Một dạng đột biến tự nhiên của giống cà phê Bourbon, với một biến đổi gen làm cây lùn hơn bình thường (dwarfism). Từ đột biến tự nhiên ban đầu, giống Caturra đã tiếp tục được chọn lọc bởi Viện Nông Học Brazill (viết tắt là IAC).
Villa Sarchi (còn gọi là La Luisa hay Villalobos Bourbon) giống như Catutta, là một đột biến “lùn” tự nhiên của giống C. Bourbon Giống này được phát hiện ở Costa Rica từ những năm 1950.
Tương tự như trên, Pacas cũng là một đột biến “lùn” tự nhiên của Bourbon, giống được phát hiện vào năm 1949 tại một trang trại thuộc sở hữu của gia đình Pacas ở vùng Santa Ana của El Salvador.
Arabica SL28 là một trong những giống cà phê Arabica phổ biến và được đánh giá cao nhất tại Châu Phi. Từ lần đầu được canh tác tại Kenya vào những năm 1930, không lâu sau SL28 đã phân bố rộng khắp trên các khu vực khác của châu Phi (đặc biệt quan trọng là các vùng trồng Arabica ở Uganda).
Bản thân Bourbon vẫn chứa đựng một “phả hệ” rất đa dạng, ngoài các giống phổ biến được liệt kê trên đây, chúng ta còn có Tekisic – được chọn lọc bởi Viện nghiên cứu cà phê Salvador (ISIC) trong gần 30 năm, từ 1949 -1977 ; Venecia – được lựa chọn bởi ICAFE tại Costa Costa ; K7 – Được chọn lọc sau năm thế hệ tại Phòng thí nghiệm nông nghiệp Scott, thuộc Kenya vào năm 1936 ..
Mundo Novo là kết quả lai tự nhiên giữa Bourbon và Typica, lần đầu được phát hiện tại Mineiros do Tiete, Sao Paulo, Brazil. Giống cà phê lai này được tìm thấy vào năm 1943 tại khu đô thị Novo Mundo (nay là Urupes) vào năm 1943. Giống cây cà phê Mundo Novo có đặc điểm tầm vóc cao lớn, vì vậy giống này được trồng rộng rãi ở các nước Nam Mỹ. Tuy nhiên, loại cà phê này không được nông dân trồng rộng rãi vì quá cao lớn, khó canh tác hàng loạt.
Arabica Catuai là giống lai giữa Mundo Novo và Caturra xuất hiện ở Brazil vào cuối năm 1940. Hiện nay Catuai chiếm đến 50% diện tích cà phê tại Brazil, được sử dụng rộng rãi ở Trung Mỹ và điển hình là Costa Rica, Guatemala. Đặc điểm của giống Catuai là tầm vóc nhỏ, dễ dàng chăm sóc, quả có màu vàng đặc trưng, cho năng suất cao hơn Bourbon.
Pacamara, là một con lai giữa Pacas (thuộc Bourbon) và Maragogipe (thuộc Typica). Được thực hiện lựa chọn phả hệ không đầy đủ bởi Viện nghiên cứu cà phê Salvador (ISIC) nên Pacamara không ổn định từ thế hệ này sang thế hệ tiếp theo
Trên đây là một số giống cà phê Arabica phổ biến cho đến thời điểm hiện tại. Romano sẽ không ngừng cập nhật các giống mới nhất – Đừng quên chia sẻ & đóng góp ý kiến của bạn, để nhiều người hiểu rõ hơn về giống cà phê Arabica !
Xem thêm: